Việt Ngữ

 

Mục Lục

 

Home

 

Contents

 

Next

 

Back

Hội-An, thành-phố bị lăng quên

 

Tác-giả: Richard S.Ehrlich

(Tạp chí Dynasty tháng 7-1977 xuất-bản tại Đài-loan)

Thái-tú-Hạp lược dịch

 

            Nằm khép ḿnh bên eo biển miền Trung Việt-nam, bên ḍng sông Thu-Bồn trầm mặc, Hội-An được xem là thành-phố cổ kính, có nhiều hấp lực, như một cô gái duyên dáng nhất của bán đảo Đông-dương từ nhiểu thế-kỷ qua và măi cho đến bây giờ. Mặc dù lịch-sử như những cơn băo lửa, thổi qua với bao nhiêu khổ đau, thăng trầm, Hội-An vẩn sừng sững thách đố với thời-gian, với ḷng ngưới, trong cơi tạm của cuộc đời.

            Ngày nay, Hội-An đă trở nên một trong những địa-điểm có nhiều nét thu hút du khách đến từ phương xa thăm viếng, t́m lại bóng dáng cổ kính rêu phong mà Hội-An, tự nó, đă tạo nên một sức hấp dẫn lạ kỳ. một niềm lưu luyến lâu dài trong tâm khảm nhiều người, sau khi rời thành-phố yêu dấu này của Việt-nam.

            Không phải bây giờ, mà Hội-An đă thực sự được nhắc nhở đến từ đầu thế-kỷ thứ 16, 17. Bến cảng Hội-An đă rộn rịp đón tiếp những thương thuyền của Bộ-Đào-Nha, Nhật-Bản, Pháp, Trung-hoa... đến buôn bán, hoặc trao đổi sản-phẩm của nước ngoài và bản xứ. Chính sự hiện diện của các thuyền nhân nước ngoài mà những cơ-sở thương-măi đă được thiết-lập, cùng những đền thờ và chùa chiền, với mục-đích tạ ơn Trời, Phật, Thần Thánh đă hiển linh cứu giúp, che chở cho họ vượt qua đại dương đầy giông băo, hiểm nguy. Nhờ mối giao lưu nồng nhiệt đó, Hội-An đă trở thành một trung-tâm-điểm, kết-hợp những ḍng văn-hóa Đông Tây sâu sắc, tuyệt vời. 

            Hội-An là nơi tạo nên nhiều cảm hứng cho những nhà địa-chất-học, những nhà khảo cổ, muốn đi ngược ḍng thời-gian vài trăm năm về trước, trên những mănh vụn bằng sành, bằng gốm, của những thời-đại hơn ngàn năm, để t́m dấu vết của tiền-nhân xuất hiện ở miền đất đầy di-tích này.

            Địa-thế Hội-An càng thuận lợi hơn, không có những thiên tai bất hạnh như những nơi khác. Hải cảng Hội-An là nơi trú ẩn an toàn cho tàu thuyền trong mùa giông băo. Trong thời gian mưa gió này, những thương khách ngoại quốc có dịp lên bờ kết thân với người bản xứ, bổ sung thêm nước ngọt, thực-phẩm, trao đổi hàng-hóa và tu-bổ tàu thuyền.

            Hội-An cung-cấp những mặt hàng được ưa thích và nổi tiếng như như trầm hương, sừng tê, ngà voi, bông vải, đồi mồi, trai ốc, mật ong, cau khô, hồ tiêu, tơ lụa địa-phương. Thương khách ngoại quốc cũng mang đến cho Hội-An những sản-phẩm như trà, thuốc bắc, lưu-huỳnh, vải vóc và đồ sứ đủ màu sắc tuyệt đẹp... 

            Hội-An được xem như trạm dừng chân lư-tưởng khi gió mùa thổi ngang qua biển Nam Hải, trên tuyến đường Nam Bắc Á Châu. Vào mùa xuân, gió mùa đổi hướng, thổi những cánh buồm từ Nhật-Bản và Trung quốc đến phương Nam, và tấp vào hải cảng Hội-An. Đợi khi đến mùa hạ, gió bấc thổi về, những thương thuyền lại ra khơi, hướng về cố xứ. Trong thời-gian tạm dừng chân phiêu lăng, cũng có một số thương nhân đă lưu- luyến kết hôn với những cô gái bản xứ, t́nh nguyện ở lại, mở cửa hàng buôn bán và chọn Hội-An làm quê-hương thứ hai cho đến trọn đời.    

            Vào khoản năm 1600, thương nhân Nhật đă xây Lai-viễn-kiều, c̣n gọi là Chùa Cầu hay cầu Nhật-bản, với lối kiến-trúc hoàn toàn có bản sắc của văn-hóa Nhật. Theo truyền thuyết của dân địa-phương, để chống động đất, người Nhật đă xây cầu Nhật-bản này tại yếu điểm của thân con Rồng vĩ đại, mà đầu là ở Ấn-độ và đuôi th́ ở Nhật-bản. Nếu không yểm nó, con Rồng sẽ vươn ḿnh, gây nên thiên tai khủng khiếp. Cùng thời-gian này, người Trung-hoa đă xây-dựng Khu-phố Quảng-Đông, một trung-tâm buôn bán của người Hoa với người bản xứ.

Cuối thế-kỷ thứ 16 và đầu thế-kỷ thứ 17, các nhà truyền giáo Pháp và Bồ-đào-nha đă theo các thương thuyền, ghé lại Hội-An để truyền đạo. Và chính vị giáo sĩ Pháp lừng danh Alexandre Rhodes đă đến thành-phố cổ kính Hội-An, nơi đây, ông đă sáng tạo ra chữ quốc-ngữ từ tiếng La-tin, dễ đọc, được thông dụng cho đến ngày nay. Vào thế-kỷ thứ 18 và 19, những biến cố đau thương do sự tranh ngai vàng giữa những nhân-vật trong hoàng tộc ở kinh-đô Huế đă phá hủy di sản qúy báu, cổ kính của Hội-An.

Sau những biến-cố kinh hoàng đó, nền kinh-tế phồn-thịnh của Hội-An cũng bị suy thoái nặng nề. Các thương thuyền ngoại quốc không đến Hội-An nữa v́ lệnh bế quan tỏa cảng. Con sông Hội-An ngày một bị bùn lầy bồi đắp và trở thành hoang phế. Từ những tiêu điều của Hội-An, những triều đại kế tiếp kết hợp với những nhà đầu-tư địa-phương quyết-định thành-lập hải cảng Đà-nẵng mà người Pháp gọi là Tourane, đất đai rộng răi hơn, thuận lợi hơn cho sự phát-triển kinh-tế.

Chùa Long-Giáng, ngôi  chùa cổ xây dựng từ năm 1671

Từ đó, Hội-An bị ch́m vào quên lăng. Gió băo cũng tàn phá lần hồi tuyến đường xe lửa Đà-nẵng-Hội-an xây-dựng từ đầu thế-kỷ thứ 19 mà Hội-An không có ngân khoản để trùng tu. Như một cô gái duyên dáng thầm lặng, Hội-An phải tự lo liệu lấy số phận của ḿnh. Rồi những thế-hệ trẻ hậu sinh của Hội-An cũng ruồng bỏ ‘người t́nh cổ kính’ để chạy theo ánh sáng đô-thành, rực rỡ hơn những ngọn đèn vàng hiu hắc. Cũng may Hội-An đă vượt qua tầm lửa đạn của hai cuộc chiến-tranh khủng khiếp Việt-Pháp và của hai mươi năm nội chiến.

Thế rồi Hội-An, như người đẹp ngủ trong rừng lâu năm, bổng nhiên vươn vai đứng dậy, chào đón du khách viễn phương đến thăm viếng, v́ Hội-An đă đi vào lịch-sử. Những năm sau 1980, những nhà học-giả, khảo cổ ngoại quốc đă đến thăm viếng Hội-An, thích thú khám phá ra tại đây những kiến-trúc có giá-trị nghệ-thuật từ mấy trăm năm trước. Họ đă thuyết-phục được Hội-đồng UNESCO của Liên-hiệp-quốc tặng một số ngân-khoản để trùng-tu Hội-An, và từ đó, Hội-An đă trở thành một trọng điểm du-lịch của thế giới. Hơn 60.000 cư dân thành-phố cổ Hội-An hân hoan đón nhận những nụ cười đến từ bốn phương trời. Hội-An đă thực sự hồi sinh ! Ngôi chợ giữa phố, ven sông Sài, từ sáng sớm, đă tấp nập người mua kẻ bán, với đầy đủ các mặt hàng rau trái tươi xanh bên cạnh những rỗ tôm cá vừa đem lên từ những ghe thuyền Cửa Đại. Trên sông Hội-An, tấp nập ghe đ̣ ngược xuôi. Trên thuyền chở du khách, cô lái đ̣ e thẹn, chỉ hai bên bờ sông, giới-thiệu những tên làng, tên xóm. Trẻ thơ tung tăng thả diều, các cô gái khom lưng giặt giũ và những ngư ông an nhàn buông cần bên bờ sông.

Những ngôi nhà cổ ở Hội-An cũng được du khách nhiệt t́nh chiếu cố. Như những du khách mà chúng ta thường gặp ở khu Beverly Hills hay Holywood, tay cầm bản đồ hướng-dẫn, t́m xem những ngôi nhà lộng lẫy của các đại minh-tinh, du khách ở đây cũng cầm trên tay những bản hướng-dẫn, đến thăm những ngôi nhà cổ kính xây dựng từ thế-kỷ thứ 16, 17, mà nay vẫn sừng sững tồn tại qua mưa gió thời-gian. Mái ngói âm dương đầy rêu xanh. Du khách được chủ nhân hân hoan mời vào xem bên trong. Những cây cột, cây kèo được chạm trổ tinh vi, những tủ thờ, bàn ghế bằng gỗ qúy đen mun, chạm trổ khá mỹ-thuật, với những h́nh tượng lịch-sử, hoa, điểu, ngư, tiều, những phong-cảnh Trung-hoa và Việt-nam. Trên các kệ, tủ, trưng bày những món đồ cổ giá-trị như b́nh, chén trà, độc b́nh cắm hoa, lư hương...đều là đồ sứ trắng hay lam ngọc, màu sắc hài ḥa, xinh đẹp, những cổ vật  từ mấy trăm năm trước, đến từ Trung-hoa, theo các thương thuyền. Đa số nhà ở Hội-an đều thiết-trí bàn thờ Phật, bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, hương khói ngi ngút. Hai bên hoặc ở trên bệ thờ là những tấm phướng hoặc liễng bằng nỉ, thêu hoa hay rồng phượng, có kết những hạt kim-cương giả lấp lánh, với những nét chữ Trung-hoa như rồng bay, phượng múa.

            Dân Hội-An không phải ai cũng làm ra tiền. Cũng có những người lao-động phải thật vất vả mới đủ sống qua ngày. Màu sơn mới, phết lên các tường thành, màu sắc tươi thắm, tuy có làm tăng thêm vẽ lộng lẫy của các chùa chiền, nhưng cũng làm giảm đi ít nhiều nét đẹp cổ kính, tự nhiên của phong-cảnh thanh thoát như những bức tranh thủy mạc. (H́nh bên: Một ngôi nhà cổ tại Hội-an)

Lần đầu tiên, Hội-An từng bị lăng quên hàng mấy trăm năm qua, nay mới t́m lại được cái sinh khí ngày xưa., khi các thương thuyền ngoại quốc tấp nập ghé lại thăm thành-phố cổ êm đềm, trầm lặng, dễ thương, để rồi ra đi, mang theo niềm lưu luyến khôn nguôi.

 

Chùa Long Tuyền, Hội-An